Giải trinh, tiếp thu dự thảo Luật Xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam

Chiều ngày 22/11, Quốc hội nghe giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam trước khi tiến hành biểu quyết.

Trình bày báo cáo, Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng và An ninh Võ Trọng Việt cho biết, tại kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa XIV, các vị đại biểu Quốc hội đã thảo luận tại hội trường về dự thảo Luật Xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam.

Trên cơ sở ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã chỉ đạo cơ quan chủ trì thẩm tra, cơ quan soạn thảo và các cơ quan hữu quan nghiên cứu, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật.

Toàn cảnh phiên họp chiều 22/11.

Về nội dung cụ thể, ông Việt cho biết: Hành vi “cung cấp thông tin sai sự thật để được cấp, gia hạn, khôi phục hoặc báo mất giấy tờ xuất nhập cảnh” tùy theo mức độ có thể bị xử lý vi phạm hành chính gắn với hậu quả pháp lý là chưa cấp giấy tờ xuất nhập cảnh, nên cần thiết phải căn cứ vào ý thức chủ quan “cố ý” vi phạm của người làm thủ tục để cấm, nếu không sẽ ảnh hưởng nhiều đến quyền công dân trong hoạt động này.

Trường hợp tự đặt thêm “các khoản thu khác” hoặc “chậm trễ, trì hoãn, từ chối không giải quyết thủ tục xuất cảnh, nhập cảnh” đã thuộc quy định cấm tại khoản 8 Điều này. Đối với hành vi vi phạm điều cấm, tùy theo tính chất, mức độ, hậu quả sẽ bị xử lý hình sự, xử lý hành chính theo các quy định của pháp luật có liên quan, nên không bổ sung quy định trong Luật này.

Về các trường hợp bị tạm hoãn xuất cảnh, Ủy ban Thường vụ Quốc hội giải trình như sau: Hiện nay, trong hệ thống pháp luật đang sử dụng thiếu thống nhất các cụm từ “cấm xuất cảnh” (Bộ luật Tố tụng Dân sự), “không được xuất cảnh” (Luật Thi hành án hình sự) và “tạm hoãn xuất cảnh” (Bộ luật Tố tụng Hình sự, Luật Quản lý thuế).

Bản chất các trường hợp “tạm hoãn xuất cảnh”, “cấm xuất cảnh”, “không được xuất cảnh” trong các đạo luật chuyên ngành đều là việc dừng, không cho xuất cảnh có thời hạn. Luật này là luật chuyên ngành về xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam, nên việc quy định đầy đủ các trường hợp dừng, không cho xuất cảnh có thời hạn đối với công dân Việt Nam trong Luật này là cần thiết.

Nếu không quy định trong Luật này 3 đối tượng không được xuất cảnh theo quy định của Luật Thi hành án hình sự có thể dẫn đến cách hiểu là do Luật này ban hành sau có giá trị áp dụng so với Luật Thi hành án hình sự năm 2019 nên trong lĩnh vực thi hành án hình sự sẽ không còn 3 đối tượng bị tạm hoãn xuất cảnh nêu trên.

Do đó, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị giữ lại 3 trường hợp không được xuất cảnh theo quy định của Luật Thi hành án hình sự; đồng thời, cho bổ sung giải thích đối với từ ngữ “tạm hoãn xuất cảnh” để bao quát cả các trường hợp “tạm hoãn xuất cảnh”, “cấm xuất cảnh”, “không được xuất cảnh” đã được quy định trong các đạo luật chuyên ngành khác và bảo đảm thống nhất giữa giải thích từ ngữ này.

Ngoài các nội dung trên, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cũng đã chỉ đạo cơ quan chủ trì thẩm tra phối hợp với cơ quan soạn thảo, Thường trực Ủy ban Pháp luật và các cơ quan hữu quan tổ chức rà soát, hoàn thiện kỹ thuật văn bản của dự thảo Luật để trình Quốc hội thông qua.

Theo HQ