Hát Sắc bùa là loại hình nghệ thuật trình diễn dân gian của người Mường. Tại Ngọc Lặc, hát Sắc bùa có những đặc trưng mang đậm sắc thái người Mường xứ Thanh.
Tục lệ hát “Sắc bùa” là loại hình nghệ thuật trình diễn dân gian của người Mường được duy trì và phát triển ở nhiều tỉnh thuộc khu vực Bắc Bộ, Trung Bộ và Nam Trung Bộ. Trong tiếng Mường hai từ “Sắc bùa” có nghĩa là “xách cồng”. Tại huyện Ngọc Lặc, tỉnh Thanh Hóa, tục lệ hát “Sắc bùa” người dân địa phương hay gọi là hát Phường chúc có những đặc trưng riêng mang đậm sắc thái của người Mường ở xứ Thanh. Hát “Sắc bùa” là nét văn hóa đặc sắc của đồng bào dân tộc Mường huyện Ngọc Lặc. Từ lâu đời tục lệ hát “Sắc bùa” đã được gìn giữ, phát huy, được tổ tiên truyền dạy từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Theo ông Phạm Đình Cường, Trưởng phòng Dân tộc huyện Ngọc Lặc, tỉnh Thanh Hóa: Nghệ thuật trình diễn “Sắc bùa” của người Mường là phương tiện giao tiếp, bày tỏ lòng tôn kính của một cộng đồng đối với mỗi con người, với thiên nhiên, vũ trụ với sự cầu mong mưa thuận, gió hòa, mùa màng bội thu, mọi người, mọi nhà an khang thịnh vượng.
Trong tục lệ hát “Sắc bùa” tại Ngọc Lặc có hệ thống nhạc khí, nhạc cụ đa dạng như: Cồng, chiêng, trống, chuông, khánh, sáo ôi, mõ, tỉnh tang, đâm đuống, tam bu. Cồng chiêng là nhạc cụ tiêu biểu nhất, đồng thời còn là bảo vật của mỗi gia đình, mỗi làng, mỗi vùng Mường kể cả về mặt chế tác, tài sản vật chất, tinh thần; được tổ chức dưới hình thức là đội nghệ thuật quần chúng tự nguyện tập hợp thành một phường với tinh thần đoàn kết thống nhất cao.
Nghệ thuật trình diễn của hát “Sắc bùa” là một tập thể gồm những người tài năng, có khả năng sáng tạo trong hoạt động nghệ thuật truyền thống dân tộc và yêu thích hát Xường và đánh cồng chiêng.
Trong các ngày lễ tết, mừng nhà mới Phường chúc xách cồng chiêng đi hết nhà này đến nhà khác, qua Mường này đến Mường kia để đánh chiêng, hát chúc. Nghệ thuật trình diễn được thực hiện như sau: Cồng 1: Cồng lệnh (nếu kèm trống, kèn, ụi, nhị là cồng dùng trong đám hiếu); Cồng 2 (cồng đôi) dùng trong lễ hội Pồn pôông (nhịp nhanh phục vụ cho việc diễn trò và nhảy múa); Cồng 3, cồng 4, cồng 7 (cồng dàn) là cồng mừng: Mừng năm mới, mừng đám cưới (rước dâu), mừng nhà mới, mừng mùa, mừng khách đến nhà, mừng hội xuống đồng (khai hạ)…tiêu biểu là cồng bùa (dán bùa). Phường chúc với sự huy động và tập hợp số lượng cồng không hạn chế nhưng ít nhất phải đủ 12 cồng, trong đó có bộ “cồng tiết tấu” và bộ cồng “khầm”.
Hát Sắc bùa gồm nhiều chủ đề khác nhau và được phân chia thành các phân đoạn (Đi đường. Vào cổng. Hát chúc và hòa tấu dưới chân cầu thang. Ra về). Ở mỗi phân đoạn, các bài hát có nội dung riêng. Khi đi đường thì có bài hát đi đường. Khi đến nhà, Phường chúc gióng chiêng ngoài cổng và bài hát bài mở cổng. Vào sân, đến chân cầu thang thì dừng lại hòa tấu cồng chiêng (bài Sắc bùa) và hát Xường chúc Tết. Khi ra về Phường chúc có bài chào về và bài hát đóng cổng.
Lời của bài hát “Chúc Tết”, “Chúc mừng năm mới” có khuôn mẫu chung nhưng đến nhà nào thì Phường chúc phải vận lời vào cảnh nhà ấy mà hát chúc cho phù hợp. Khi Phường chúc hát bài đóng cổng, nhà chủ thường tặng cho họ (có thể là bánh chưng, gạo, rượu hoặc tiền) gọi là mừng tuổi nhân dịp năm mới hay thay lời cảm ơn mừng dâu, mừng rể.
Trên quãng đường đi từ nhà này sang nhà khác, từ Mường này sang Mường khác, Phường chúc diễn tấu các bài Xường chúc và hòa tấu cồng chiêng các bài hát: đi đường, đùn đim, bông trắng bông vàng, rước đuốc, cà rồng…với những làn điệu khác nhau, theo nhịp cồng chiêng điêu luyện, tài hoa của cả Phường, đặc biệt là vai trò của người đội trưởng (trưởng Phường).
Tùy nghệ thuật trình diễn (khả năng diễn tấu) và thẩm âm của từng vùng Mường mà giai điệu cú khác nhau, nhưng cơ bản vẫn có chung một giai điệu hát “Xường khoát rác” và đánh cồng chiêng theo tiết tấu phổ biến nhất là:
Người Mường quan niệm đối với dàn Phường chúc thì càng nhiều cồng “khầm” (vài chục, vài trăm) là phường đại, tiếng “khầm” càng to thì niềm vui càng lớn, hạnh phúc càng đầy, “dưới sân lắm trâu, nhiều bò. Trên nhà nhiều cơm, nhiều lúa, nhiều ngô khoai, sắn…”.
Những bài có hợp âm “khầm” cuối câu nghe có tiếng vang lớn, vang xa như đất rung, rừng chuyển, như sấm dậy, mưa nguồn. Những bài có hợp âm “khô” cuối câu nghe như có luồng gió mát thoảng qua, như đám mây lững lờ trôi đi, cũng có thể là vật gì đó đang bồng bềnh trên sông, làm người nghe có cảm giác lâng lâng khó tả.
Đặc biệt, trong các bài đi đường như rước đuốc, đùm đi, cà rồng, với nghệ thuật đảo chiêng rặt đùi chiêng ở âm cao ghe lách tách, rào rào như ngựa chạy, lửa cháy và những tiếng ấy như quẩn quanh, uốn lượn, leo lên, tụt xuống như người đang tiến trên đường đèo dốc. Trang phục của Phường bùa Ngọc Lặc cũng không cầu kỳ: nữ mặc trang phục truyền thống của người Mường tại địa phương, nam mặc quần áo nâu, chít khăn nâu.
Với giá trị văn hóa hiện hữu, hát “Sắc bùa” của huyện Ngọc Lặc vừa được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa vào danh mục Di sản văn hóa phi vật thể Quốc gia.
Theo Công Thương