Làm chủ công nghệ chiến lược: Chìa khóa tăng trưởng dài hạn, phát triển bền vững

Ông Nguyễn Phú Hùng – Vụ trưởng Vụ Khoa học, Kỹ thuật và Công nghệ (Bộ KH&CN) nhấn mạnh: “Chúng ta phải làm chủ công nghệ chiến lược để không phụ thuộc, để có thể đứng vững và vươn lên trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt. Thời gian không chờ chúng ta. Nếu chậm chân, Việt Nam sẽ bỏ lỡ cơ hội lớn để khẳng định vị thế trong chuỗi giá trị công nghệ toàn cầu.”
Công nghệ chiến lược: Chìa khóa tăng trưởng dài hạn

Khái niệm công nghệ chiến lược (CNCL) đã được thể chế hóa trong Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo, sau khi Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết 57-NQ/TW về phát triển KH&CN đến năm 2035, tầm nhìn đến 2045. Đây là lần đầu tiên CNCL được xác định rõ trong văn bản luật, đặt nền móng cho việc hình thành các chính sách, chương trình hành động cụ thể.

Ngày 30/6/2025, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Danh mục 11 nhóm công nghệ chiến lược với 35 sản phẩm ưu tiên thông qua Quyết định 1131/QĐ-TTg. Đây được xem là kim chỉ nam cho hành trình phát triển công nghệ trong giai đoạn mới.

Theo ông Nguyễn Phú Hùng – Vụ trưởng Vụ Khoa học, Kỹ thuật và Công nghệ (Bộ KH&CN), CNCL là những công nghệ có tính nền tảng, khả năng tạo ra đột phá và tác động lan tỏa tới nhiều ngành kinh tế – xã hội, được xác định dựa trên ba tiêu chí: tính nền tảng, khả năng đột phá và tác động lan tỏa tới nhiều lĩnh vực kinh tế – xã hội.

Ông Nguyễn Phú Hùng, Vụ trưởng Khoa học, kỹ thuật và công nghệ

Một số ví dụ điển hình là robot AMR Pallet Mover, chip 5G, chatbot, UAV HERA, hay robot hình người. Những sản phẩm này không chỉ đại diện cho tiến bộ công nghệ mà còn mở ra các ngành công nghiệp mới, góp phần nâng cao năng suất, chất lượng và năng lực cạnh tranh quốc gia.

Ông Hùng khẳng định: “Chúng ta phải làm chủ công nghệ chiến lược để không phụ thuộc, để có thể đứng vững và vươn lên trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt.”

Đại diện Bộ KH&CN đánh giá, Việt Nam đã bước đầu hình thành một số sản phẩm và năng lực trong lĩnh vực công nghệ chiến lược, song còn nhiều hạn chế. Một số tập đoàn, doanh nghiệp công nghệ lớn, cùng với các viện nghiên cứu và trường đại học, đã tham gia phát triển các sản phẩm nền tảng. Tuy nhiên, quy mô vẫn nhỏ, thiếu sự liên kết hệ sinh thái và chưa có nhiều sản phẩm đạt chuẩn quốc tế. Năng lực tự chủ về thiết kế, sáng chế lõi vẫn yếu; trong khi tỷ lệ đầu tư cho R&D còn thấp so với yêu cầu.

Ông Hùng chỉ rõ: “Muốn đi đường dài, chúng ta phải coi đầu tư cho nghiên cứu và phát triển là hạ tầng thiết yếu. Đầu tư cho CNCL cần đạt ít nhất 15% chi R&D quốc gia. Nếu không, chúng ta sẽ luôn đi sau”.

Đặt ra mục tiêu cụ thể, ông Hùng cho biết, đến năm 2025, Việt Nam phải làm chủ được ít nhất 3 sản phẩm công nghệ chiến lược. Con số này sẽ tăng lên 20 sản phẩm vào năm 2027 và đạt trên 25 sản phẩm vào năm 2035, với tỷ trọng đóng góp của các ngành công nghệ chiến lược vào GDP dự kiến đạt 15–20%. Đây là một tham vọng lớn nhưng hoàn toàn khả thi nếu Việt Nam biết tận dụng nguồn lực, tập trung ưu tiên và có cơ chế triển khai quyết liệt.

Cùng với đó, Bộ KH&CN cũng đã trình Chính phủ danh sách 6 công nghệ chiến lược được ưu tiên triển khai sớm, bao gồm thiết bị mạng 5G chuẩn ORAN, mô hình ngôn ngữ lớn và trợ lý ảo tiếng Việt, robot di động tự hành, nền tảng blockchain truy xuất nguồn gốc, UAV thế hệ mới và camera AI xử lý tại biên. Đặc biệt, để bảo đảm tính hiệu quả và đồng bộ, Thủ tướng Chính phủ sẽ trực tiếp làm Trưởng ban Chỉ đạo Chương trình quốc gia phát triển công nghệ và công nghiệp chiến lược.

Theo ông Hùng, phát triển công nghệ chiến lược phải bắt đầu từ sản phẩm, và sản phẩm gắn liền với doanh nghiệp. Doanh nghiệp là nơi hiểu rõ nhu cầu thị trường và có khả năng thương mại hóa công nghệ, trong khi Nhà nước đóng vai trò kiến tạo hành lang pháp lý, hỗ trợ hạ tầng thử nghiệm và nghiên cứu. Các viện nghiên cứu, trường đại học cần tập trung vào việc cung cấp tri thức, công nghệ nền tảng và nhân lực chất lượng cao. Mô hình hợp tác ba bên này – Nhà nước, doanh nghiệp và giới nghiên cứu – sẽ tạo thành một tam giác liên kết, giúp hình thành hệ sinh thái công nghệ chiến lược đồng bộ và bền vững.

Trong số các giải pháp trọng tâm, ông Hùng nhấn mạnh đến việc phải tăng cường đầu tư cho R&D, phát triển mạnh nhân lực chất lượng cao và đẩy mạnh hợp tác quốc tế. Việc thu hút các chuyên gia toàn cầu, kết hợp đào tạo nhân lực trong nước gắn với nhu cầu thực tiễn của doanh nghiệp, được coi là chìa khóa để tạo ra bước đột phá. Việt Nam cần xây dựng hạ tầng công nghệ hiện đại, từ các phòng thí nghiệm trọng điểm đến các khu công nghiệp chuyên biệt dành cho công nghệ cao, đồng thời có cơ chế khuyến khích doanh nghiệp đầu tư mạnh vào lĩnh vực này.

Theo ông Hùng, hợp tác quốc tế vẫn là cần thiết, nhưng phải gắn liền với mục tiêu làm chủ công nghệ. “Chúng ta có thể tiếp nhận công nghệ tiên tiến từ bên ngoài, nhưng quan trọng hơn là phải làm chủ và sáng tạo ra công nghệ của chính mình. Nếu chỉ dừng lại ở mức độ chuyển giao, chúng ta sẽ không bao giờ thoát khỏi vòng phụ thuộc,” ông nói. Đồng thời, ông nhấn mạnh rằng sự chậm trễ trong triển khai sẽ khiến Việt Nam mất đi lợi thế, bởi trong cuộc đua công nghệ, quốc gia nào nắm bắt nhanh hơn sẽ có cơ hội chiếm lĩnh thị trường và thiết lập tiêu chuẩn.

Liên kết ba nhà để bứt phá công nghệ chiến lược

Ở góc nhìn doanh nghiệp, ông Nguyễn Đạt – Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn Viettel, nhận định rằng trong kỷ nguyên số, quốc gia nào nắm giữ và phát triển được công nghệ cốt lõi sẽ có cơ hội bứt phá, khẳng định vị thế trên bản đồ quốc tế. Với Viettel, hành trình hơn một thập kỷ qua là quá trình vượt qua nhiều rào cản về nghiên cứu, sáng chế, bản quyền và nguồn nhân lực, dựa trên triết lý “đặt mục tiêu lớn, cách làm khác biệt, tự thiết kế – tự tích hợp – tiến tới làm chủ công nghệ lõi”.

Theo ông Đạt, Viettel đã đi theo lộ trình ba bước: tiếp nhận – làm chủ – sáng tạo, trong đó yếu tố quyết định là kiên trì theo đuổi mục tiêu độc lập về công nghệ thay vì phụ thuộc vào chuyển giao.

Ông Nguyễn Đạt, Phó Tổng Giám đốc Viettel

Từ nền tảng nghiên cứu quốc phòng, tập đoàn đã phát triển nhiều sản phẩm công nghệ cao như hạ tầng viễn thông 4G/5G, các nền tảng số phục vụ chuyển đổi số quốc gia, thiết bị hàng không vũ trụ và bước đầu xuất khẩu ra thị trường quốc tế như Ấn Độ, UAE hay Philippines. Để duy trì lợi thế, Viettel đã thành lập Trung tâm Nghiên cứu Công nghệ Chiến lược, quy tụ hơn 3.000 nhân sự trực tiếp tham gia các dự án nghiên cứu và sản xuất, đồng thời triển khai chương trình thu hút chuyên gia giỏi từ nước ngoài.

Từ kinh nghiệm thực tiễn, Viettel kiến nghị Nhà nước mở rộng phạm vi chi của quỹ phát triển công nghệ chiến lược, không chỉ hỗ trợ nghiên cứu mà cả khâu đầu ra; đồng thời xây dựng các khu công nghiệp chuyên biệt cho ngành bán dẫn, hàng không; ban hành bộ tiêu chí nội địa hóa mới dựa trên năng lực thiết kế và nghiên cứu thay vì chỉ tính tỷ trọng linh kiện nhập khẩu. Ngoài ra, cần sớm hình thành một viện nghiên cứu công nghệ chiến lược tầm khu vực, kết nối chặt chẽ giữa nhà nước, viện – trường và doanh nghiệp.

GS.TS. Lê Anh Tuấn, Chủ tịch Hội đồng Trường Đại học Bách khoa Hà Nội cho rằng, không một chủ thể nào có thể tự mình gánh vác toàn bộ chuỗi đổi mới sáng tạo. Vì vậy, cần hình thành một mô hình hợp tác chặt chẽ, đa chiều và linh hoạt giữa Nhà nước, doanh nghiệp và giới học thuật.

Theo ông, trong số các mô hình trên thế giới, Việt Nam phù hợp hơn với mô hình Hàn Quốc: Nhà nước kiến tạo chính sách, đầu tư hạ tầng và đặt hàng công nghệ; viện, trường đảm nhiệm vai trò tạo ra tri thức mới, đào tạo nhân lực chất lượng cao; doanh nghiệp dẫn dắt thị trường và thương mại hóa sản phẩm. Theo ông, liên kết ba nhà chính là chìa khóa để phát triển công nghệ chiến lược trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0.

Các chuyên gia khẳng định, với nỗ lực tự thân của doanh nghiệp kết hợp cùng chính sách hỗ trợ phù hợp, Việt Nam hoàn toàn có khả năng phát triển các ngành công nghiệp công nghệ chiến lược, đủ sức cạnh tranh sòng phẳng với những tập đoàn công nghệ lớn trên thế giới.

Theo VietNamFinance