Với vị trí chiến lược và nhiều lợi thế đặc thù, Hà Nội đang có tiềm năng và cơ hội lớn để phát triển, thu hút đầu tư vào lĩnh vực chuyển đổi sản xuất xanh.
Lợi ích của sản xuất xanh đối với doanh nghiệp và xã hội
Hiện nay, nền kinh tế Việt Nam, đặc biệt là khu vực phía Bắc, đang chứng kiến những bước phát triển mạnh mẽ. Theo số liệu từ Tổng cục Thống kê, GDP Việt Nam trong quý II/2024 tăng trưởng 5,2% so với cùng kỳ năm trước. Khu vực phía Bắc, đặc biệt là Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Thái Nguyên, đã có mức tăng trưởng vượt bậc trong các ngành công nghiệp, du lịch và dịch vụ.
Tuy nhiên, song song với sự phát triển kinh tế là những thách thức về môi trường. Báo cáo của Bộ Tài nguyên và Môi trường năm 2023 chỉ ra rằng, hơn 30% các khu công nghiệp tại phía Bắc chưa đáp ứng tiêu chuẩn về xử lý nước thải và chất thải rắn. Việc sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên không hợp lý đã dẫn đến suy thoái đất đai, ô nhiễm không khí, và cạn kiệt nguồn nước ngọt.
Chính vì thế, việc chuyển đổi sang mô hình sản xuất xanh không chỉ là xu hướng mà còn là yêu cầu bắt buộc. Điều này sẽ giúp các doanh nghiệp tăng cường hiệu quả sản xuất, giảm chi phí, đồng thời bảo vệ môi trường và phát triển bền vững trong dài hạn.
Tại Hội nghị “Hà Nội và các tỉnh khu vực phía Bắc – Xúc tiến đầu tư chuyển đổi sản xuất xanh, phát triển bền vững trong nền kinh tế số”, ông Mạc Quốc Anh, Tổng thư ký Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Thành phố Hà Nội cho rằng chuyển đổi sản xuất xanh mang lại nhiều lợi ích to lớn cho cả doanh nghiệp và xã hội.
Bởi, các doanh nghiệp áp dụng mô hình sản xuất xanh có thể tiết kiệm được 10 – 30% chi phí năng lượng và nguyên vật liệu. Điển hình là Tập đoàn Năng lượng Xanh tại Hải Phòng đã tiết kiệm được 25% chi phí vận hành nhờ vào việc ứng dụng công nghệ tái chế và tái sử dụng nguyên liệu.
Bên cạnh đó, sản xuất xanh còn giúp doanh nghiệp tăng cường khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Hiện nay, nhiều thị trường lớn như Liên minh châu Âu (EU) và Hoa Kỳ đã đặt ra các tiêu chuẩn khắt khe về môi trường cho hàng hóa nhập khẩu. Các sản phẩm đạt tiêu chuẩn xanh không chỉ dễ dàng tiếp cận các thị trường này mà còn được hưởng các ưu đãi về thuế và xuất khẩu.
Theo dự báo của Viện Nghiên cứu Kinh tế Xanh, đến năm 2030, việc chuyển đổi sang sản xuất xanh có thể tạo thêm 2 triệu việc làm trong các lĩnh vực như năng lượng tái tạo, công nghệ sinh học, và nông nghiệp hữu cơ tại Việt Nam.
“Chúng ta không thể đứng ngoài cuộc cách mạng công nghiệp xanh, khi mà các yêu cầu về môi trường ngày càng khắt khe từ thị trường quốc tế. Tôi kêu gọi các doanh nghiệp, nhà đầu tư, cùng các cơ quan chức năng cùng nhau nỗ lực để biến các thách thức thành cơ hội, tận dụng triệt để các nguồn lực sẵn có để phát triển nền kinh tế xanh, bền vững”, ông Mạc Quốc Anh khẳng định.
Hút đầu tư vào sản xuất xanh, phát triển bền vững tại Việt Nam
Theo số liệu từ Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trong giai đoạn 2020 – 2023, Việt Nam chỉ thu hút được khoảng 10 tỷ USD vào các dự án sản xuất xanh, chiếm khoảng 10% tổng vốn đầu tư FDI. Đây là một con số khiêm tốn so với tiềm năng phát triển của quốc gia. Đa số các khoản đầu tư xanh hiện nay tập trung vào các lĩnh vực như năng lượng tái tạo (điện mặt trời, điện gió), nông nghiệp hữu cơ, và xử lý chất thải.
Tuy nhiên, quá trình thu hút đầu tư xanh còn gặp nhiều khó khăn. Một trong những thách thức lớn nhất là sự thiếu hụt về nguồn vốn dài hạn và sự hạn chế trong việc tiếp cận công nghệ tiên tiến. Bên cạnh đó, cơ chế chính sách còn chưa thực sự hoàn thiện, gây cản trở cho doanh nghiệp trong việc tiếp cận các gói hỗ trợ tài chính và thuế ưu đãi.
Chia sẻ về tiềm năng và lợi thế thu hút đầu tư của Việt Nam, đặc biệt là khu vực phía Bắc, ông Nguyễn Anh Tuấn, Phó cục trưởng Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho biết, SHBC đánh giá Việt Nam là điểm đến hấp dẫn cho doanh nghiệp nước ngoài, trong khi JETRO xếp Việt Nam là địa điểm đầu tư hấp dẫn thứ hai thế giới và đứng đầu khu vực châu Á. Còn theo EuroCham, Việt Nam nằm trong top 10 điểm đến đầu tư toàn cầu.
Đại diện Phòng Công nghiệp và Thương mại Đức cho biết, 90% doanh nghiệp Đức có kế hoạch mở rộng đầu tư tại Việt Nam. Các quốc gia như Hà Lan và Bỉ cũng đang tăng cường đầu tư, tập trung vào công nghệ và năng lượng tái tạo.
Đặc biệt, các nhà đầu tư FDI sẽ quan tâm đến các lĩnh vực như năng lượng sạch, tái tạo, hydrogen xanh, chip bán dẫn, nghiên cứu và phát triển, trí tuệ nhân tạo, và robot.
“Trước bối cảnh này, Việt Nam nói chung, Hà Nội nói riêng đang chủ động thu hút đầu tư nước ngoài có chọn lọc, đặt chất lượng, hiệu quả, công nghệ và bảo vệ môi trường làm tiêu chí đánh giá chính. Ưu tiên các dự án ứng dụng công nghệ tiên tiến, công nghệ mới, công nghệ cao, và công nghệ sạch, đồng thời có quản trị hiện đại, giá trị gia tăng cao, tác động lan tỏa, chuyển giao công nghệ, và kết nối chuỗi sản xuất, cung ứng toàn cầu,” ông Tuấn nhấn mạnh.
Việt Nam cũng tăng cường tạo môi trường kinh doanh minh bạch và ổn định, thúc đẩy đầu tư vào các lĩnh vực công nghệ cao và đổi mới sáng tạo như trí tuệ nhân tạo, chuỗi cung ứng thông minh, năng lượng tái tạo, và công nghệ xanh.
Thủ tướng đã phê duyệt Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050 và Kế hoạch hành động Tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 – 2030.
Cùng với đó, Ban Chỉ đạo quốc gia về tăng trưởng xanh cũng đã được thành lập để hỗ trợ Chính phủ. Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã ban hành “Hướng dẫn xây dựng Kế hoạch hành động và tích hợp tăng trưởng xanh vào chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội các cấp”.
Để hoàn thành Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh mà Chính phủ đề ra, TS. Nguyễn Quốc Hùng, Tổng thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam khẳng định, đến 30/6/2024, đã có 50 TCTD phát sinh dư nợ tín dụng xanh đạt 650.253 tỷ đồng, tăng 4,71% so với cuối năm 2023, chiếm tỷ trọng khoảng 4,52% tổng dư nợ toàn nền kinh tế, tập trung chủ yếu vào các ngành năng lượng tái tạo, năng lượng sạch và nông nghiệp xanh…
Tuy nhiên, ông Hùng cũng thừa nhận, vẫn còn nhiều thách thức và rào cản như nguồn lực tài chính, cơ sở pháp lý phục vụ cho hoạt động tín dụng xanh, thiếu hướng dẫn chuyên ngành của các cơ quan chuyên môn về danh mục các ngành, lĩnh vực xanh với tiêu chí cụ thể; nhiều doanh nghiệp chưa hiểu biết về sản xuất xanh, dẫn đến không thể tiếp cận nguồn vốn tín dụng xanh…
Vì vậy, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, chỉ đạo các bộ, ngành hướng dẫn về Danh mục xanh và tiêu chí xác định dự án xanh phù hợp với phân ngành kinh tế của Việt Nam làm cơ sở cho các tổ chức tín dụng căn cứ lựa chọn, thẩm định, đánh giá và giám sát khi thực hiện cấp tín dụng xanh; Xây dựng lộ trình thực hiện các cơ chế, chính sách hỗ trợ các ngành xanh (thuế, phí, vốn, kỹ thuật, thị trường, quy hoạch, chiến lược phát triển…) của từng ngành, lĩnh vực…