Tại Tuyên bố chung giữa Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden về nâng cấp quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ lên Đối tác Chiến lược Toàn diện ngày 10-11/9/2023, Hoa Kỳ đã “hoan nghênh những bước tiến trong quá trình cải cách kinh tế dựa trên thị trường có ý nghĩa quan trọng của Việt Nam, đồng thời khẳng định sự nhiệt tình và cam kết đối với quá trình phối hợp rộng rãi, mạnh mẽ, mang tính xây dựng và trên tinh thần ủng hộ Việt Nam trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường và tiến tới công nhận quy chế kinh tế thị trường của Việt Nam theo luật Hoa Kỳ”.
Tuyên bố chung cho biết: “Ngày 8/9/2023, Hoa Kỳ đã nhận được yêu cầu chính thức của Việt Nam đề nghị Hoa Kỳ xem xét công nhận quy chế kinh tế thị trường. Hoa Kỳ sẽ khẩn trương xem xét yêu cầu này của Việt Nam theo luật định”.
Thời điểm chín muồi
Mỗi quốc gia sẽ có những quy định riêng để xác định nền kinh tế thị trường. Theo quy định của Hoa Kỳ, có 6 tiêu chí để đánh giá một nền kinh tế là thị trường hay phi thị trường, gồm: Mức độ chuyển đổi tiền tệ; đàm phán tiền lương, tiền công giữa người lao động và người sử dụng lao động; mức độ đầu tư nước ngoài vào hoạt động kinh tế; sở hữu nhà nước và tư nhân; mức độ kiểm soát của chính phủ đối với một số nguồn tài nguyên và giá cả; và các yếu tố khác.
Đồng tiền của Việt Nam có thể chuyển đổi thành tiền của nước khác một cách minh bạch dựa trên nguyên tắc thị trường, công bằng và công phân biệt đối xử được thể hiện qua:
– Bộ Tài chính Mỹ khẳng định Việt Nam không thao túng tiền tệ.
– Tự do hóa tài khoản vãng lai và tài khoản vốn.
– Mức độ can thiệp của Nhà nước vào thị trường ngoại hối (Chính phủ mua hoặc bán ngoại tệ và nội tệ ảnh hưởng đến tỷ giá…). Việc sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ và thực hiện phương án can thiệp của NHNN vào thị trường ngoại tệ nhằm mục đích thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia chứ không tác động đến giá trị của Đồng Việt Nam.
– Năm 2022, các quy định mới được ban hành, hướng dẫn quản lý ngoại hối đối với hoạt động vay, trả nợ nước ngoài của doanh nghiệp, sửa đổi, bổ sung các quy định trước đây nhằm đáp ứng nhu cầu thực tiễn hoạt động vay, trả nợ của doanh nghiệp cũng như mục tiêu quản lý của NHNN.
Mức lương ở Việt Nam được xác định thông qua thương lượng tự do giữa lao động và người sử dụng lao động:
– Việt Nam đã thiết lập khuôn khổ pháp lý đầy đủ, rõ ràng để đảm bảo các quyền cơ bản của người lao động.
– Quy định về quyền tự do thỏa thuận tiền lương giữa người lao động và người sử dụng lao động, được thể hiện trong hợp đồng lao động quy định trong Bộ Luật Lao động.
– Mức độ tham gia của Chính phủ trong việc đàm phán tiền lương là giới hạn. Tiền lương được trả thông qua thương lượng giữa người lao động và người sử dụng lao động và không được thấp hơn mức lương tối thiểu do Chính phủ quy định.
Liên doanh hoặc đầu tư khác của các công ty nước ngoài được cho phép ở Việt Nam:
– Việt Nam duy trì cơ chế đầu tư nước ngoài thân thiện và cởi mở, không có sự khác biệt trong đối xử giữa nhà đầu tư nước ngoài và nhà đầu tư trong nước. Chỉ số hạn chế của Việt Nam đã giảm 5 lần trong giai đoạn 1997-2020, từ 0,671 xuống 0,13. Năm 2020, Việt Nam lần đầu tiên được UNCTAD đưa vào danh sách 20 quốc gia thu hút FDI hàng đầu thế giới. Việt Nam cũng là một trong hai quốc gia ở châu Á cải thiện được chỉ số tín dụng dài hạn ở mức ổn định, tích cực theo đánh giá của Moody’s và S&P. Nikkei Asia đánh giá Việt Nam dẫn đầu Đông Nam Á về khả năng phục hồi sau đại dịch Covid-19 (đứng thứ 8 thế giới).
– Thời gian qua, Việt Nam đã thực hiện nhiều cải cách nhằm thu hút đầu tư nước ngoài. Ví dụ như Luật Đầu tư ban hành năm 2020 bổ sung quy định về cơ chế, chính sách ưu đãi, hỗ trợ đầu tư, hướng tới các dự án công nghệ cao, sáng tạo, giá trị gia tăng cao, tăng cường liên kết, lan tỏa và bảo vệ môi trường,…).
– Các quy định hiện hành về đầu tư trực tiếp nước ngoài được thực hiện theo Luật Đầu tư 2020, Nghị định số 31/2021/ND-CP ngày 26/3/2021 của Chính phủ với các quy định về ưu đãi thu hút đầu tư theo vùng, các ngành công nghiệp, thúc đẩy hợp tác đầu tư nước ngoài và phát huy tối đa nội lực của doanh nghiệp trong nước; liên kết chặt chẽ và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, năng lực của các ngành, doanh nghiệp; tăng cường mức độ liên kết giữa các vùng trong cả nước.
Nhà nước không sở hữu hoặc kiểm soát ở mức độ đáng kể các phương tiện sản xuất:
– Tính đến thời điểm 31/12/2020, Việt Nam có 660,1 nghìn doanh nghiệp ngoài quốc doanh, chiếm 96,5% tổng số doanh nghiệp cả nước và tăng 35,1% so với năm 2016; 22,2 nghìn doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, chiếm 3,3% và tăng 58,8%. Trong số 50 công ty lớn nhất Việt Nam năm 2022, khu vực tư nhân có sự góp mặt của 33 công ty thuộc các lĩnh vực tài chính ngân hàng, bất động sản, ô tô, viễn thông, bảo hiểm, thép, hàng tiêu dùng…
– Nỗ lực của Chính phủ thúc đẩy cổ phần hóa DNNN được coi là nhiệm vụ chính trị quan trọng nhằm thúc đẩy và nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường.
– Chính phủ đã cải thiện Luật Đất đai để đảm bảo quyền và nghĩa vụ của mỗi người sử dụng đất. Theo Luật Đất đai 2013, không có sự phân biệt cơ bản về quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể trong nước và nước ngoài trong việc tiếp cận trực tiếp đất đai từ Nhà nước.
Nhà nước không có quyền kiểm soát đáng kể về việc phân bổ nguồn lực hoặc về các quyết định về giá cả và sản lượng của doanh nghiệp:
– Chính sách công nghiệp của Việt Nam không nhằm mục đích bóp méo giá cả, sản lượng của doanh nghiệp.
– Việt Nam đã ban hành Luật Giá số 11/2012/QH13, Khoản 1 Điều 5 của Luật quy định: “Nhà nước quản lý giá theo cơ chế thị trường; tôn trọng quyền tự định giá, cạnh tranh về giá của tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh theo quy định của pháp luật”.
– Việt Nam đã cải cách căn bản khu vực tài chính trong những năm qua để đảm bảo sự tham gia của khu vực tư nhân trong khu vực tài chính và NHNN không can thiệp vào việc ra quyết định kinh doanh của các ngân hàng thương mại. Các ngân hàng thương mại nhà nước đã được cổ phần hóa. Hiện nay, Việt Nam chỉ duy trì 4 ngân hàng thương mại 100% vốn nhà nước trong tổng số 35 ngân hàng thương mại trong nước và 2 ngân hàng chính sách 100% vốn nhà nước. Tính đến 30/6/2023, vốn của các ngân hàng thương mại tư nhân chiếm khoảng 71% tổng vốn của các ngân hàng thương mại.
Các yếu tố khác cho thấy nền kinh tế Việt Nam vận hành theo nguyên tắc thị trường:
– Xây dựng và hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cơ bản cho doanh nghiệp phá sản (Luật Phá sản 2014).
– Minh bạch trong hệ thống quản trị doanh nghiệp (Luật Doanh nghiệp 2020, Luật chống rửa tiền).
– Cập nhật khung pháp lý cho Kiểm tra nhà nước (Luật Kiểm toán Nhà nước 2015).
– Đảm bảo hệ thống pháp luật thống nhất.
– Đa dạng hóa và mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại.
Hoa Kỳ đánh giá cao những nỗ lực không ngừng của Việt Nam nhằm hiện đại hóa và nâng cao tính minh bạch của chính sách tiền tệ và khuôn khổ quản lý tỷ giá hối đoái, nhằm thúc đẩy ổn định kinh tế vĩ mô và đảm bảo sự an toàn và lành mạnh của hệ thống ngân hàng. Như đã thảo luận, quyết định cấp quy chế nền kinh tế thị trường cho một quốc gia phải trải qua quá trình tìm hiểu thực tế và đánh giá nghiêm ngặt bởi các quan chức chuyên nghiệp tại Bộ Thương mại Hoa Kỳ. Do đó, các bên quan tâm sẽ có cơ hội cung cấp thông tin thực tế để Bộ Thương mại xem xét trong việc đánh giá vị thế của Việt Nam là nền kinh tế thị trường hay phi thị trường. Theo quy định, Bộ Thương mại Hoa Kỳ sẽ quyết định xem có tiến hành rà soát trong vòng 45 ngày hay không và đưa ra kết luận trong vòng 270 ngày kể từ ngày Việt Nam yêu cầu xem xét lại quy chế kinh tế thị trường.
Triển vọng, cơ hội mới cho hợp tác kinh tế giữa hai nước sau khi Mỹ công nhận nền kinh tế thị trường của Việt Nam
Một khi được Hoa Kỳ công nhận là nền kinh tế thị trường, Việt Nam sẽ có nhiều lợi thế đối với ngành sản xuất, xuất khẩu sang nước này; ngoài ra, còn là lợi thế trong các cuộc điều tra chống bán phá giá, trợ cấp.
Việc coi Việt Nam là nền kinh tế phi thị trường cho phép Hoa Kỳ áp dụng thuế suất toàn quốc – là mức thuế dành cho các doanh nghiệp không hợp tác hoặc không chứng minh được họ không chịu sự kiểm soát của Chính phủ. Thuế suất toàn quốc thường được Hoa Kỳ tính toán dựa trên dữ liệu sẵn có nên thường bị đẩy lên rất cao và được duy trì trong tất cả các đợt rà soát, gây cản trở cho việc xem xét dỡ bỏ lệnh áp thuế. Theo số liệu của Tổng cục Hải quan, năm 2022, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang Hoa Kỳ đạt 109,39 tỷ USD năm 2022, tăng 13,6% so với năm 2021 và chiếm tỷ trọng 29,5% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam ra thế giới. 8 tháng đầu năm 2023, Việt Nam xuất khẩu 62,12 tỷ USD sang Hoa Kỳ, chiếm tỷ trọng 27,2% tổng kim ngạch xuất khẩu của ta.
Nếu được công nhận nền kinh tế thị trường, trong các vụ kiện chống trợ cấp, chống bán phá giá, doanh nghiệp Việt Nam sẽ không bị tính toán bất lợi. Từ đó, quy mô và thuế suất tương ứng từ Mỹ sẽ thấp hơn nhiều so với hiện tại do được phê duyệt một cách chuẩn mực và công bằng hơn.
Một đặc điểm rất quan trọng cần nhắc đến trong quan hệ kinh tế, thương mại song phương giữa Việt Nam và Hoa Kỳ đó là tính chất bổ trợ của hai nền kinh tế. Hoa Kỳ có nhu cầu nhập khẩu lớn những sản phẩm nông nghiệp đặc trưng hoặc những sản phẩm mà Việt Nam có thế mạnh dựa trên điều kiện kinh tế tự nhiên thuận lợi, lợi thế về nhân công trong nhiều lĩnh vực như dệt may, da giày, máy móc thiết bị điện tử…Ở chiều ngược lại, Hoa Kỳ được đánh giá là một trong những thị trường nhập khẩu quan trọng nguyên vật liệu đầu vào phục vụ sản xuất của Việt Nam, cung cấp các sản phẩm nguồn như bông, thức ăn gia súc, ngô, đậu tương, hóa chất, máy móc, công nghệ… để đáp ứng tốc độ tăng trưởng xuất khẩu cao và sự mở rộng nhanh chóng của nền kinh tế. Một số lĩnh vực có triển vọng phát triển như sau:
– Quan hệ thương mại: Quy chế nền kinh tế thị trường từ Hoa Kỳ có thể sẽ tạo điều kiện cho quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Hoa Kỳ suôn sẻ hơn. Điều này có thể dẫn đến giảm thuế quan và các rào cản thương mại, giúp sản phẩm của Việt Nam thâm nhập thị trường Mỹ dễ dàng hơn.
– Đầu tư: Được công nhận là nền kinh tế thị trường cũng có thể thúc đẩy đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt Nam. Nó sẽ báo hiệu cho các nhà đầu tư rằng chính sách kinh tế của Việt Nam phù hợp với thông lệ quốc tế và có thể là điểm đến đầu tư thuận lợi.
– Tăng trưởng kinh tế: Tình trạng nền kinh tế thị trường phản ánh tích cực về tiến bộ và phát triển kinh tế của Việt Nam. Điều này cho thấy nước này đã có những bước tiến đáng kể trong việc thực hiện các chính sách và thực tiễn theo định hướng thị trường.
– Ý nghĩa địa chính trị: Yêu cầu này có thể được nhìn nhận trong bối cảnh rộng hơn của các động lực địa chính trị ở Đông Nam Á. Nó có thể cho thấy mong muốn của Việt Nam trong việc tăng cường quan hệ kinh tế với Hoa Kỳ, có khả năng cân bằng các mối quan hệ trong khu vực.
– Tuân thủ các quy định của WTO: Việc Hoa Kỳ công nhận là nền kinh tế thị trường có liên quan trong bối cảnh của Tổ chức Thương mại Thế giới (WHO). Điều đó có thể hàm ý rằng Việt Nam đáp ứng được một số tiêu chí nhất định do WTO đặt ra về chính sách định hướng thị trường.
Ngoài Hoa Kỳ, EU cũng giữ nguyên quan điểm xem Việt Nam là kinh tế phi thị trường. Năm 2015, khi đang đàm phán FTA, đại diện phái đoàn Liên minh châu Âu lưu ý với báo giới, việc ký kết không đồng nghĩa với việc công nhận Việt Nam là kinh tế thị trường.
Trung Quốc ủng hộ nỗ lực của Việt Nam xây dựng và phát triển thành công nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội Chủ nghĩa phù hợp với tình hình đất nước, sẵn sàng tiếp tục mở rộng và làm sâu sắc hơn hợp tác thực chất song phương giữa hai nước.
(*) PGS.TS. Đoàn Ngọc Thắng, Phó trưởng khoa phụ trách – NCS Lương Văn Đạt, Khoa KDQT, Học Viện Ngân Hàng
Theo Nhà Đầu Tư