Được đánh giá đứng trước cơ hội thu hút dòng vốn FDI công nghệ cao, nhờ sự dịch chuyển của chuỗi cung ứng trên toàn cầu, song đến nay dường như các doanh nghiệp FDI “đại bàng” vẫn đang “lưỡng lự” với thị trường Việt Nam.
Từ lo ngại nguồn điện không đảm bảo
Trong kiến nghị đề xuất gửi đến Chính phủ và các cơ quan liên quan mới đây, một nội dung quan trọng các doanh nghiệp FDI Mỹ, EU, Nhật Bản, Hàn Quốc cùng thể hiện sự quan tâm về khả năng cung ứng điện của Việt Nam, ở cả hiện tại và tương lai, nhất là trong bối cảnh những ngành sản xuất công nghệ cao đòi hỏi nguồn điện lớn và phải đảm bảo vận hành thường xuyên.
Theo ông Joseph Uddo, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp Mỹ tại Việt Nam (AmCham), một trong các nhu cầu chính của tất cả các doanh nghiệp và bất kỳ nhà đầu tư trong tương lai, đó là nhu cầu ổn định của nguồn cung cấp năng lượng và khả năng tiếp cận năng lượng tái tạo ngay lập tức. Duy trì các hệ thống năng lượng chính là cung cấp cho các nhà đầu tư khả năng tiếp cận năng lượng tái tạo, giúp cho đất nước có lợi thế cạnh tranh hơn.
Do vậy cách tiếp cận hợp tác giữa khu vực công và tư là điều cần thiết để phát triển nguồn điện bền vững. Và Việt Nam có thể thu hút nguồn tài chính toàn cầu nhờ hệ thống quản lý năng lượng hiệu quả.
“Chúng tôi khuyến khích tiếp tục đối thoại giữa Bộ Công Thương, Tập đoàn Điện lực Việt Nam và các bên liên quan trong khu vực tư nhân, để có thể đưa ra các giải pháp khả thi ngắn hạn và dài hạn, đáp ứng nhu cầu an ninh năng lượng, bao gồm thúc đẩy phê duyệt các dự án khí tự nhiên hóa lỏng (LNG) quy mô lớn nhằm hỗ trợ an ninh năng lượng. Cơ sở hạ tầng năng lượng không thể được thiết lập trong một sớm một chiều, nên việc lập kế hoạch cho sự tăng trưởng bền vững của Việt Nam cần phải được thực hiện ngay từ bây giờ” – ông Joseph Uddo khuyến nghị.
Tương tự AmCham, đại diện Hiệp hội Doanh nghiệp châu Âu tại Việt Nam (EuroCham), cũng bày tỏ lo ngại về khả năng cung ứng điện đối với sản xuất của các doanh nghiệp. Theo EuroCham, Việt Nam nên có cơ chế thiết lập các quy định để có thể cung cấp năng lượng từ các dự án năng lượng tái tạo trực tiếp đến người dùng cuối (chứ không phải qua EVN và lưới điện), với việc bao tiêu trực tiếp dưới hình thức Thỏa thuận mua bán điện trực tiếp (DPPA) giữa nhà phát điện và người tiêu dùng cuối cùng.
Kiến nghị lên Chính phủ, ông Muto Shiro, Phó Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp Nhật Bản (JCCI), gọi sự cố cắt điện ở miền Bắc vào năm ngoái là nghiêm trọng, vì nhiều doanh nghiệp không thể lập được kế hoạch sản xuất, dự báo ngày giao hàng. Điều này khiến mô hình “just in time” – cốt lõi của chuỗi cung ứng bị tác động rất lớn.
Ông Hong Sun, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp Hàn Quốc (KoCham) tại Việt Nam, dẫn lại số liệu tính toán của Ngân hàng Thế giới (WB), năm 2023 Việt Nam thiệt hại khoảng 1,4 tỷ USD do thiếu điện, tương đương 0,3% GDP. Do vậy không đủ điện hiện nay đang là yếu tố lớn khiến nhiều doanh nghiệp Hàn Quốc, đặc biệt công ty công nghệ cao chần chừ khi rót vốn đầu tư vào Việt Nam.
Đến lo ngại chính sách ưu đãi “thiếu nhất quán”
Theo đại diện các hiệp hội doanh nghiệp FDI tại Việt Nam, mặc dù Việt Nam đang có quyết tâm rất lớn trong việc thu hút những lĩnh vực FDI công nghệ cao như chất bán dẫn, tuy nhiên những vấn đề như thiếu ưu đãi cho doanh nghiệp sau khi áp dụng thuế tối thiểu toàn cầu, hay thiếu điện cục bộ tại miền Bắc là những rào cản khiến Việt Nam kém hấp dẫn trong mắt các doanh nghiệp bán dẫn.
Chủ tịch KoCham cho biết, kể từ đầu năm 2024 Việt Nam chính thức áp thuế tối thiểu toàn cầu. Thuế suất sẽ áp dụng 15% với các doanh nghiệp đa quốc gia có tổng doanh thu hợp nhất 750 triệu EUR (khoảng 800 triệu USD) trở lên trong 2 năm của 4 năm liền kề nhất. Theo ước tính, ngân sách sẽ thu được 14.600 tỷ đồng từ khoảng 122 tập đoàn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam thuộc diện nộp thuế này.
Tuy nhiên, đến nay Việt Nam vẫn chưa có quy định cụ thể về những ưu đãi doanh nghiệp FDI được hưởng sau khi áp dụng thuế suất trên. Được biết hiện Bộ Kế hoạch – Đầu tư đã xây dựng Nghị định ưu đãi cho doanh nghiệp sau khi áp dụng thuế tối thiểu toàn cầu, tuy nhiên mức hỗ trợ hiện vẫn chưa rõ ràng.
Tương tự, ông Seck Yee Chung, Phó Chủ tịch Hiệp hội Thương mại Singapore tại Việt Nam (SCCV), cũng cho rằng các đối tượng hỗ trợ trong Nghị định về việc thành lập, quản lý và sử dụng Quỹ hỗ trợ đầu tư còn trong phạm vi hẹp. Cụ thể, dự thảo đưa ra đối tượng là các doanh nghiệp có dự án đầu tư trong lĩnh vực công nghệ cao, đáp ứng điều kiện về quy mô vốn đầu tư trên 12.000 tỷ đồng hoặc đạt doanh thu trên 20.000 tỷ đồng/năm.
Với điều kiện này, về quy mô chỉ có số lượng rất ít doanh nghiệp có thể đạt được, theo đó chính sách sẽ chỉ tập trung áp dụng cho một nhóm đối tượng hẹp, chưa đại diện được cho nhóm các nhà đầu tư trong lĩnh vực công nghệ cao, và cũng chưa đảm bảo đáp ứng được mục tiêu thu hút đối với các nhà đầu tư chiến lược như tinh thần Quốc hội đã đặt ra tại Nghị quyết 110.
Thực tế, những chính sách ưu đãi cho doanh nghiệp FDI khi đầu tư ban đầu cần được giữ lâu dài cho các giai đoạn sau. Điều này cho thấy tính chắc chắn của chính sách cũng như nhất quán của Chính phủ. Một số chuyên gia kinh tế cũng từng kiến nghị, Chính phủ cần thành lập Quỹ hỗ trợ đầu tư từ nguồn thu tăng thêm khi thực hiện thuế tối thiểu toàn cầu.
Bởi chỉ khi ổn định được môi trường đầu tư, khuyến khích thu hút các nhà đầu tư chiến lược, tập đoàn đa quốc gia và hỗ trợ các doanh nghiệp trong nước đối với một số lĩnh vực cần khuyến khích đầu tư, khi đó Việt Nam mới có nguồn thu tăng thêm từ thuế.
|